Tiếng Đờn Ca Từ Tiệm Hớt Tóc

Tiệm hớt tóc Đời Mới

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên là Đời Mới, tuy hẹp bề ngang nhưng có bảng hiệu rất bắt mắt, vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăn-gô không khác gì những mái tóc của kép Minh Phụng, kép Dũng Thanh Lâm. Trong tiệm có dãy gương kê sát nhau phía bên trái cùng ba ghế tựa. Bên phải có khoảng năm ghế gỗ cho khách ngồi đợi, một bàn nhỏ hình chữ nhật bằng gỗ có ép nhiều tờ tiền giấy xưa dưới tấm kiếng trong suốt. Dưới bàn là chồng nhật báo, lúc đó gọi là “nhật trình”… trên cao có vài chậu kiểng nhỏ và những tấm kiếng nhỏ hơn để khách ngồi quay lưng phía đối diện có thể thấy được “cái ót” của mình …

Tiệm không có gì đặc biệt, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn và ca cổ phát ra. Đám con nít rủ nhau đi coi mấy người đờn ca tài tử ở nhà ông Tư Triều tiệm hớt tóc Đời Mới. Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh rỗi mới tụ lại với nhau thôi mà tồn tại rất lâu hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm nên đến giờ còn có người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã gần nửa thế kỷ trôi qua và các nhân vật chính, phụ trong câu chuyện này hầu như không còn mấy người còn trên đời.

Tiệm hớt tóc Đời Mới trên đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) quận 3.
Tiệm hớt tóc Đời Mới trên đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) quận 3.

Ông chủ tiệm Tư Triều

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu tiên, ông lập gia đình lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có cô con gái. Tiệm cũng là nhà ở của gia đình, ông sống cuộc đời bình thường của một người làm dịch vụ cùng với hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích cổ nhạc lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rỗi rảnh. Trên đất Sài Gòn và các tỉnh miền Nam, những nhóm đờn ca tài tử xuất hiện khắp nơi, ban đầu là nơi gặp mặt vui chơi văn nghệ nhưng dần dà là chốn nuôi dưỡng nghệ thuật ca cổ, là nguồn cung cấp nghệ sĩ cho các gánh cải lương từ xưa đến nay. Từ hồi trai trẻ, ông đã coi mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa, v.v.. Bạn bè thân của ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó, họ chưa nổi tiếng, cùng ông mỗi đêm phóng xe tìm chỗ ca hát cho thỏa. Ông gọi Hữu Phước là Ri, vì ông này có quốc tịch Pháp có tên là Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, người trong giới bình dân, trí thức, cảnh sát, hoặc đang trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng, một luật sư ở tòa Thượng thẩm. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, biết chuyện chính trị xã hội, rành chuyện cải lương, rành về nhạc cụ trong cổ nhạc. Ông biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua lại đờn cũ, mang về chỉnh sửa lại theo ý mình và sau đó đưa cho mấy bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề rồi, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8 ) đặt từng thanh gỗ theo kích thước của ông cho để làm cần đờn, mặt đờn. Có khi phải tìm cho được gỗ của cây ngô đồng nhập từ bên Tàu qua đường Campuchia … Về nhà, ông gọt dũa từng chi tiết rất công phu qua từng ngày, tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức … Khi đàn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đàn tranh, thấy 16 “con nhạn” (miếng gỗ kê dây đàn) của đàn không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác và mang về gọt dũa thành những “con nhạn” mới để thay vào. Ông có đủ thứ đồ nghề để chế tác những miếng gỗ vô tri đó thành những nhạc cụ cổ nhạc.

Ông Tư Triều cắt tóc cho vị khách cũng là một người bạn ái mộ cải lương.
Ông Tư Triều cắt tóc cho vị khách cũng là một người bạn ái mộ cải lương.

Nhóm đờn ca tài tử

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm ngoài những người đến cắt tóc thường xuyên lâu nay. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc là bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm. Còn có nghệ sĩ tiền phong Duy Lân (đoàn Cải lương Kim Thoa, lúc đó đã bị mất một chân phải đi chân giả sau vụ nổ trong đêm diễn vở tuồng Lấp sông Gianh), bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nhạc sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời cho gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ). v.v. .. Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, bề ngoài luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi đoàn hát của nghệ sĩ Phùng Há lên ti-vi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm do ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao, khiêm tốn và hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Bài bản các anh ca khá lạ, khó ca và ít được dịp nghe trong tuồng Cải lương trên sân khấu hay truyền hình … Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này “đụng” nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới, như có hẹn nhau từ trước vậy. Có lần anh Ngọc đang mặc quân phục chạy xe ngang, thấy xôm tụ, cũng ghé vào chào hỏi, ca luôn mấy bài rồi vội vã đi. Mỗi tuần ông Tư Triều dành ra một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Thỉnh thoảng vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya. Những lúc như vậy, vợ con ông ở dưới nhà, lâu lâu “sắp nhỏ” chạy mua thức ăn thức uống cho cha. Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Họ đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ khác nhau (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ. Nhiều cây đờn kìm, đờn tranh cẩn xà cừ hình “bát tiên quá hải”, “mai lan cúc trúc”, “ngư tiều canh mục”… rất đẹp. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều, hiếm khi hoặc không bao giờ ông muốn bán, chỉ cho bạn bè mượn đi đàn ở gánh hát.

Tuy hát hò quanh năm, ngày Tết vắng tiếng đờn ca vì ai nấy phải về quê thăm họ hàng. Nhưng từ mùng Hai trở đi, mọi người đã tụ lại, chúc Tết trước và nếu có hứng thì chơi vài bản khai xuân.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm Đời Mới vào đầu thập niên 1960.
Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm Đời Mới vào đầu thập niên 1960.

Hồi ức cậu con trai út

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi hơn năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy tuổi. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại thưởng thức. Nếu có người ca thì người xem sẽ đông hơn khi chỉ có hòa tấu. Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, thấy hay quá cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai cắt tóc xong. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài bản cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán … Những bài đó, tuy giới nghệ sĩ chuyên nghiệp thỉnh thoảng vẫn ca trên ti vi, đài phát thanh nhưng khi nghe các ông đờn ca tài tử ở nhà mới thấy thấm thía làm sao giữa tiếng đàn réo rắt, luôn mang âm hưởng trầm buồn … Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca “Phù Đổng Thiên Vương” không nhớ điệu gì nhưng cách thể hiện rất hào hùng. Câu cuối cùng anh ca: “…phi ngựa lên núi Sóc Sơn” kết thúc quá đẹp, dứt nhịp song loan ai cũng tấm tắc. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca cũng lạ tai, vững nhịp.

Chớ bỏ qua : Khúc rao khắp nẻo Sài Gòn

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (sau này là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát là chị răm rắp nghe lời. Chị ca thiệt hay, nhịp nhàng tuyệt vời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, xe đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “phụ thầy đẩy đi con !” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Xe nổ và chị tót ngay trên xe, ai nhìn thấy cảnh ấy cũng thương cô học trò rất vâng lời và thương ông thầy.

Một lần duy nhất Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đàn do ông chế tác. Số là trong số khách đến hớt tóc có anh trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep (công vụ) có tài xế đưa đón. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé đến cắt, cạo râu, lấy ráy tai chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông đồng ý đổi chiếc đờn lấy cái Ti vi hiệu Sanyo 17 inches mới toanh, giá lúc ấy là 90.000 đồng. Hẳn ông cũng quý anh bạn trẻ và cũng muốn có ti vi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Ông Tư Triều (trái) và một người bạn.
Ông Tư Triều (trái) và một người bạn.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi, chính quyền lại đánh thuế nặng nên ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm. Giữa 1974 ông lui về quê Củ Chi cất cái “nhà” lá nhỏ vách đất để trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng tạm mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con. Sống một mình, ông lấy tiếng đờn làm vui để nhớ lại thời tạm gọi là huy hoàng, tuy không giàu tiền bạc nhưng đầy lời ca tiếng nhạc thỏa mãn chất nghệ sĩ sâu đậm trong ông. Mấy mươi năm theo các ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cũ cùng đi hát với nhau trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Ông nói với Tâm khi nhắc đến một người như vậy: “Hắn còn thiếu ba mấy cặp vỏ xe vespa”. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người có máu nghệ sĩ, cùng ngân nga đàn hát những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, và cũng là nơi lui tới của vài người “vui đâu chầu đó”, nên điều đó không có gì lạ.

Đến năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa từng mua cây đàn tranh. Anh đi ngang nhà và ghé thăm ba, vóc dáng tiều tuỵ và sạm nắng đi nhiều nhưng vẫn nhận ra nhau. Biết tin ông đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay và vội vã đi như đang lo lắng điều gì. Từ đó, Tâm không gặp lại anh nữa trong hơn bốn mươi năm nay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài. Ông không gặp được đứa con út mê cổ nhạc như ông, đứa con từng khiến ông thấy hạnh phúc khi nghe tin con đậu hạng cao vào ngôi trường Nam trung học số một miền Nam, trường Petrus Ký.

Anh Tâm kể rằng dù hồi nhỏ chỉ nghe ba và các chú đàn hát, đến giờ khi nghe tiếng rao của cây đờn kìm, tranh hay sến, anh có thể cảm được âm thanh nhạc cụ nào hay hay dở hoặc độ ấm nhiều hay ít, nhạc công nào chơi hay hay dở. Anh cho rằng đó không phải là tài năng, chỉ nhờ nghe nhiều mà biết. Anh nhớ lời nghệ sĩ Mỹ Châu nói với anh: “Có nhiều tiếng rao đờn (*) mới nghe đã chảy nước mắt, và mình sẽ thăng hoa theo, sẽ ca rất muồi. Có nhiều tiếng rao mới nghe qua nước mắt đã dội ngược về tim”. Tâm tin là ban nhạc đờn ca tài tử do người cha có máu nghệ sĩ của anh đã nhiều lúc làm được điều đó, nên mới thu hút những tên tuổi đến tụ hội trong căn nhà phố bé xíu bề ngang 2,2 m của mình. Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa của người dân Sài Gòn – Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà lưu giữ, từ thời mở cõi vô Nam.

Sưu tầm từ tác giả PHẠM CÔNG LUẬN
(Trích cuốn SÀI GÒN – CHUYỆN ĐỜI CỦA PHỐ tập IV. Công ty sách Phương Nam xuất bản 2017)

(*): Mỗi khi muốn bày tỏ tâm tình và trước khi vô vọng cổ, người hát thường hay “nói lối” .. hơi giống ngâm thơ một chút, nhưng có hướng muồi mẫn hơn. Tiếng đờn dạo lên hoà với giọng ngâm nga của người nghệ sĩ , giúp người hát và tiếng ca được thăng hoa khi người Nghệ sĩ xuống câu vọng cổ (gọi là xuống xề).

Ảnh trong bài là tư liệu của gia đình ông Tư Triều.